Chuyên trang thông tin dành cho người mắc bệnh đại tràng

Tìm hiểu về viêm loét đại trực tràng chảy máu

15/10/2018 Admin

Viêm loét đại trực tràngchảy máu là bệnh về đường tiêu hóa, có xu hướng tăng ở các nước phát triển. Bệnh gây loét và tổn thương tập trung ở vùng trực tràng, nguyên nhân gây bệnh không rõ, thường xuất hiện ở người trẻ. Bệnh không được phát hiện, điều trị kịp thời nên dễ gây ra các biến chứng nguy hiểm.

Nguyên nhân bệnh viêm loét đại trực tràng chảy máu

 

Đại tràng là đoạn cuối của đường tiêu hóa, nơi hình thành và chứa đựng phân trước khi đưa ra ngoài. Các thành phần của đại tràng bao gồm: manh tràng, đại tràng phải, đại tràng góc gan, đại tràng ngang, đại tràng góc lách, đại tràng xuống, đại tràng xuống, đại tràng sigma, trực tràng và hậu môn.

 

Nguyên nhân gây bệnh hiện nay vẫn chưa xác định rõ, nhưng bệnh có liên quan tới quá trình đáp ứng miễn dịch. Bệnh viêm loét đại tràng chảy máu và bệnh Crohn gọi chung là nhóm bệnh viêm ruột (Inflammatory Bowel Disease- IBD). Lúc đầu bệnh có thể chỉ khu trú tại trực tràng, về sau lan dần vào trong, tổn thương có thể toàn bộ đại tràng đôi khi có thể lan cả sang một phần của đoạn cuối ruột non. Tỷ lệ mắc bệnh ở cả nam và nữ là như nhau, thường gặp ở lứa tuổi 15 – 30 và 60 – 70 tuổi.

 

Ảnh minh họa

 

 

 

Triệu chứng, biến chứng của bệnh

 

Triệu chứng

 

Tùy theo từng mức độ tổn thương mà bệnh sẽ có những biểu hiện khác nhau.Thông thường những trường hợp điển hình viêm loét đại trực tràng chảy máu sẽ có những triệu trứng sau:

 

• Bệnh nhân tiêu chảy nhiều lần trong ngày

 

• Phân có nhiều nhầy máu, nếu nặng có khi chỉ toàn nhầy máu mà không có phân.

 

• Có cảm giác đau bụng , khi đau bụng muốn đi đại tiện ngay, mót rặn khi đại tiện.

 

Giai đoạn đầu bị bệnh thường bị nhầm là bị bệnh lỵ và tự điều trị nhưng không có kết quả hoặc có giảm bớt triệu chứng nhưng để lâu bệnh ngày càng tăng dần và có triệu chứng nặng hơn.

 

Mức độ nhẹ, người bệnh không có thay đổi về thể trạng, triệu chứng đại tiện nhầy máu chỉ kéo dài dưới 4 ngày, không có thay đổi thể trạng, không có thiếu máu hoặc giảm protein máu. Bệnh thường chỉ khu trú ở trực tràng hoặc đại tràng sigma, hiếm khi có tổn thương cao hơn ở phía trên. Những biểu hiện ngoài ruột là rất hiếm. Ttrạng này cũng có thể diễn tiến thành nặng nếu để lâu.

 

Trường hợp nặng, người bệnh thường khởi đầu bằng đau quặn bụng, rồi đại tiện phân máu, có thể xảy ra vào ban đêm nhưng số lần đại tiện thường dưới 6 lần/ngày. Thường kèm theo sốt, giảm protein máu, làm bệnh nhân mệt mỏi.

 

Bệnh trở nên trầm trọng khi người bệnh đại tiện có máu hơn 6 lần/ngày và thường xảy ra về ban đêm. Có cảm giác đau rát, buốt hậu môn và mót rặn. Cơ thể suy sụp với nhịp tim nhanh, huyết áp hạ, sốt cao, bụng trướng. Không được chữa trị kịp thời thì tiến triển rất nặng dẫn đến tử vong do xuất huyết trầm trọng hoặc giãn đại tràng nhiễm độc.

 

Một số triệu chứng khác: Bệnh nhân có thể sốt, thiếu máu, có thể có phù chân do giảm protein máu khi mắc bệnh lâu ngày. Bệnh nặng có biểu hiện mất nước: khát nước, môi khô, người hốc hác, thậm chí có triệu chứng sốc như: mạch nhanh, huyết áp tụt, đau bụng dữ dội do viêm đại tràng nhiễm độc. Có thể bị sưng đau các khớp, đau vùng thắt lưng và cùng chậu do viêm khớp cùng chậu…

 

Biến chứng của bệnh

 

Biến chứng thường thấy là người bệnh bị suy kiệt, thiếu máu, sốc do nhiễm độc, có thể thủng đại tràng nếu bệnh nặng.

 

Những biến chứng nhẹ của ruột là giả polyp ( chỉ xảy ra trong 20% trường hợp). Những biến chứng ít gặp hơn là nứt hậu môn, rò và áp-xe hậu môn. Nặng thì người bệnh có thể bị chảy máu trầm trọng, hẹp đại tràng, phình đại tràng nhiễm độc, thủng và dẫn đến ung thư.

 

Biến chứng khác: viêm quanh mật quản, viêm khớp, hồng ban nút, viêm da mủ hoại thư, viêm xơ đường mật tiên phát, viêm thận bể thận và sỏi, trong đợt cấp nặng của viêm loét đại trực tràng chảy máu lan rộng có thể có biến chứng đông máu rải rác nội mạc.

 

Chẩn đoán và điều trị viêm loét đại tràng chảy máu

 

Chẩn đoán

 

• Viêm đại tràng mạn do nhiễm khuẩn và ký sinh trùng: thường gặp nhất là do chlamydia, herpes và amíp, lao ruột, lỵ trực khuẩn, viêm đại tràng giả mạc do Clostridium diffcile;

 

• Bệnh Crohn: đây là loại bệnh có cơ chế bệnh sinh và hình thái lâm sàng rất gần với viêm loét đại trực tràng chảy máu, chẩn đoán phân biệt cần dựa vào nội soi với hình ảnh tổn thương khu trú hay nhảy cóc và nhất là sinh thiết với sự hiện diện của tế bào biểu mô khổng lồ.

 

• Bệnh viêm đại tràng do thiếu máu cục bộ: thường xảy ra ở người già có dấu hiệu xơ vữa động mạch. Lâm sàng có dấu hiệu thiếu máu ruột sau khi ăn. Xác định bằng chụp nhuộm động mạch mạc treo thấy hình ảnh teo hẹp.

 

• Viêm đại tràng do tia xạ: tiền sử bệnh nhân có chiếu tia xạ vùng bụng nhất là hạ vị.

 

Điều trị

 

Hiện nay vẫn cho có thuốc để điều trị dứt điểm bênh mà chỉ điều trị giúp lui bệnh. Tuy nhiên, tùy theo tình trạng, giai đoạn của bệnh, tổng trạng của bệnh nhân mà bác sĩ sẽ chỉ định dùng thuốc cụ thể.

 

Biện pháp duy nhất để điều trị viêm đại tràng khỏi bệnh hoàn toàn là phẫu thuật cắt bỏ đại tràng. Phương pháp này thường được áp dụng trong trường hợp nặng gây nhiễm độc, nguy cơ thủng đại tràng hoặc khi bệnh không đáp ứng khi điều trị bằng thuốc đại tràng.

 

Song song với việc điều trị theo chỉ định của bác sĩ, cần có chế độ dinh dưỡng tốt cho hệ tiêu hóa của bệnh nhân, tránh stress, không dùng các chất kích thích, uống đủ nước và khám sức khỏe định kỳ. Không chỉ vậy, đây cũng là những biện pháp giảm nguy cơ mắc bệnh đối với người khỏe mạnh.

 

Khi có triệu chứng, cần đi khám bệnh sớm và điều trị kịp thời khi tổn thương chưa lan rộng; theo dõi định kỳ để phát hiện tránh để bệnh tiến triển thành ung thư.

 

St